Hát bộ (hát bội) là một loại văn nghệ dân tộc được nhân dân trên đảo Phú Quý đặc biệt ưa thích. Trước đây, tại thôn Mỹ Khê, xã Tam Thanh có một gánh hát bội mang tên Thống Nhất do ông Đỗ Minh Chiếu (Còn gọi là Đỗ Kiều, đã mất) làm bầu gánh. Ông từng lưu giữ khoảng 20 bản tuồng hát bội viết bằng chữ Hán Nôm trên giấy dó và ông có thể độc thông thạo các bản Hán Nôm này.
Vốn dĩ là những người lưu dân, có gốc gác từ các tỉnh miền Trung, là cái nôi đầu tiên của nghệ thuật hát bội, nên người dân ở Phú Quý có một tình cảm rất đặc biệt với loại hình sân khấu dân gian này. Trong các ngày hội văn hóa, hay trong các dịp tế lễ Tết, người dân ở đây thường tổ chức hát bội rất linh đình . Đến với các dịp lễ hội dân gian của đảo Phú Quý, ngoài các hình thưc diễn xướng dân gian khác như Hò đưa linh, chúng ta sẽ thấy có sự xuất hiện của những gánh hát bội. Hát bội đã thật sự đem lại cho nhân dân bản xứ một món ăn tinh thần phong phú, giúp con người tạm thời quên hết mọi gánh nặng âu lo để hòa mình vào từng làn điệu du dương: Nam xuân cảm khoái vui tươi, Nam ai bi lụy ai oán, Nói lối sắc sảo cứng cáp, Hát khách oai phong lẫm lẫm.
Với số lượng khoảng 20 vở tuồng cổ chữ Nôm, trong đó có 9 vở tương đối hoàn chỉnh: Mộng Kim Lân nhị thứ, Mộng Kim lân tam thứ, Mã Thừa long nhị đoạn diễn ca nhất thứ, Trương Cổ Thành, Sầm Bành nhất hồi, Châu Lý Ngọc, Đinh Lưu Tú diễn ca, Đường Thế Dân nhất thứ diễn ca, Mã Lý Hiền diễn ca thứ nhất, cùng với một số vở tuồng cổ điển được viết bằng chữ Quốc ngữ: Tam Quốc, Hạ Nam đường, Tiết Giao đoạt ngọc, Tam biến bá phụ cừu, Đại Sản Hậu, Mã Phụng Xuân, Lý Phụng Tiên…có thể thấy Hát bội chiếm một vị trí “độc tôn” trong lòng của công chúng yêu mến nghệ thuật xứ đảo. Vì khả năng thông hiểu Hán Nôm có hạn, nên chúng tôi không thể dịch được các vở tuồng cổ này, mà chỉ xin giới thiệu một bản dịch tuồng Sầm Bành của dịch giả Võ Thị Tâm.
Nhìn chung, các gánh Hát bộ ở Phú Quý không có được một sự chuẩn bị chuyên nghiệp như ở một số địa phương khác (Bình Định, Quảng Nam). Nghệ sĩ trình diễn là những người dân lao động trong thôn xóm có tài hát hò, diễn xuất. Mỗi khi công việc đồng áng, đi biển đã xong xuôi, mọi người lại tụ hội về, cùng nhau sửa soạn, dàn dựng, tập tuồng và diễn tuồng. Phục trang, đạo cụ, công việc hóa trang cho diễn viên đều do chính bầu gánh đảm nhiệm. Nên trong gánh hát, bầu gánh có một vai trò cực kỳ quan trọng và có thể coi “là linh hồn cho toàn gánh”.
Được biết, trước đây ở đảo có 4 gánh tuồng lớn: gánh Đồng Lập (Thương Châu, Ngũ Phụng) do ông Cao Lấm làm bầu gánh, gánh Thống Nhất (Tam Thanh) là gánh nổi tiếng nhất, do ông Đỗ Minh Chiếu làm bầu gánh, gánh Huỳnh Hoạch (Tam Thanh), gánh hát của ông Võ Gia Thài (Long Hải). Tùy theo tài năng mà bầu gánh đặt lời, soạn thêm tuồng mới cho phù hợp với thị hiếu của công chúng, chẳng hạn các vở tuồng dựa trên tuồng cũ rồi cải biên lại, thay đổi chút ít về nội dung, thêm bớt tình tiết: Dương Hồng Cẩm hạ san, Phạm Lãi biệt Tây Thi, Mạnh Lệ Quân, Tiêu Anh Phụng, Lục Vân Tiên, Việt điểu hoành phi… hoặc soạn tuồng theo tích xưa được lưu truyền trên đảo như: Bên dòng kinh nhỏ, chuyện tình nơi hoang đảo, Kiều Huy Tạng…Theo lệ thường, các diễn viên hát tuồng đều học tuồng qua bản dịch của bầu gánh (vì hầu hết đều không biết đọc chữ Nôm) và hầu như chỉ biểu diễn trích đoạn tuồng.
Mỗi khi có gánh hát biểu diễn, bà con thường tụ tập rất đông để đón xem. Nghe tuồng thuộc tuồng, trong những lúc nông nhàn, mọi người lại cùng xướng ca cho vui, thuộc câu nào hát câu ấy. Cứ người nọ tiếp lời người kia làm cho buổi hội ngộ thêm phần hứng khởi, thú vị. Do ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến, nên ngày xưa ở đảo con gái không được đi học, không tham gia đọc sách, mà chỉ có nhiệm vụ lao động dệt vải, quay tơ…và nếp nghĩ ấy cũng được thể hiện rõ trong hát bộ.
Trước năm 1930, ở các gánh hát không cho phụ nữ sắm vai đào hát, mà chỉ dành cho đàn ông. Có một câu hỏi được đặt ra: tại sao Hát bộ là sản phẩm của phong kiến, của lớp người phong lưu quý tộc, lại được tầng lớp bình dân yêu mến đến như vậy? Theo chúng tôi, thì điều này cũng có nguyên do riêng. Sở dĩ người dân ưa thích, say mê hát bộ đến nỗi:
“Tai nghe trống chiếng, trống chầu
Bỏ ba con cúi lộn đầu lộn đuôi”
Hay :
“Hát bội làm tội người ta
Đàn ông bỏ vợ, đàn bà bỏ con”.
Thậm chí các nhân vật trong các vở tuồng hát bộ cũng là nguồn cảm hứng để nhân dân đảo sáng tác nên những câu ca dao (6 ĐVTP, chiếm 3%):
“Văn nào hay cho bằng Khương Ninh Tá
Khả (Chí khí) nào giỏi bằng Tạ Ôn Đình
Đến khi Phàn Diệm ra minh
Khương Ninh Tá hạ mã, Tạ Ôn Đình phải bị vây
( Tên các nhân vật trong tuồng San hậu).
Xét về mặt tâm lý, người dân lao động quanh năm phải cặm cụi làm ăn để mưu sinh, họ lại thiếu thốn đủ điều cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Cho nên họ luôn ước mong có những dịp được giao lưu, vui chơi giải trí để khuây khỏa tâm hồn, để rồi sau cuộc vui lại tiếp tục miệt mài lao động. Thêm vào đó, nội dung của các vở tuồng bao giờ cũng đề cập đến vấn đề đạo đức, đến những gì là nhân đức, tín nghĩa, trung hiếu, cái thiện luôn luôn thắng cái ác, kẻ thủ ác sẽ phải bị trừng trị thích đáng. Chẳng hạn nội dung tuồng San hậu (Sơn hậu) kể lại chuyện vua nước Tề già yếu, sắp mất. Thái sư Tạ Thiên Lãng muốn thừa dịp này chiếm ngôi. Võ tướng Khương Linh Tá và bạn là Đổng Kim Lân đại diện cho phe chính nghĩa tìm mọi cách chống trả mọi việc làm phi pháp của họ Tạ. Trong hồi thứ III, lớp VIII, đoạn Tề đông cung đuổi tà phục nghiệp có đoạn thể hiện tấm lòng trung hiếu tiết nghĩa của các vị tướng:
Phàn Diệm:
“Mừng bấy sóng tuôn cửa võ
Toại thay sấm dậy đất bằng
Chúa còn hay dựng lại nghiệp hồng
Tôi chẳng biết phò an chân vạc (hay sao)”
Kim Lân:
“…Hầu tiếp thời quốc cựu
Phò an nghiệp chúa
Mới phải đạo tôi
Nay có trời giúp sức cậy trời
Ta vì nước phải hết ngay cùng nước”.
Kết thúc vở tuồng, Ôn Đình thua trận phải tìm đường chạy trốn, nhưng thiên la địa võng đã sẵn bày, kẻ ác bị hồn Khương Linh Tá chém chết:
Hồn Linh Tá: “Bớ Ôn Đình!
Đầu ta kíp trả, ngươi hỡi Ôn Đình
Cho biết mỗ anh linh
….Âm binh, phú âm binh vưng (vâng) thửa lịnh truyền
Chém đầu gã huyền uy mộc thượng”.
Tất cả những điều này đều phù hợp với cách sống, quan niệm sống của người bình dân vốn sống nặng tình nặng nghĩa, yêu thích nghệ thuật. Cho nên chúng ta cũng không lấy gì làm lạ khi bà con xứ đảo dành cho hát bộ một tình cảm nồng nàn đến thế. Thế nhưng ngày nay do sự phát triển của khoa học, các phuơng tiện thông tin đại chúng phát huy tối đa chức năng phục vụ đời sống văn hóa tinh thần cho con người. Lại thêm có nhiều hình thức giải trí mới mẻ hiện đại du nhập vào, nhu cầu của con người ngày càng tăng lên và họ có nhiều cách chọn lựa các hình thức giải trí khác nhau phù hợp với lứa tuổi, sở thích, giới tính của mình, nên hát bộ đã không còn là món ăn tinh thần “khoái khẩu” của nhân dân nữa. Hát bộ hầu như chỉ còn gắn với các sự kiện lễ hội của các đình, chùa, miếu. Trong dịp này, người ta thường đặt gánh hát bộ biểu diễn, rồi mời bà con đến xem, nhân tiện đóng góp, ủng hộ tiền cho việc tu xửa, xây lại chùa miếu.
Ngoài tư cách là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian, tuồng hát bộ còn có một giá trị ngoài văn học, đó là tính chất linh thiêng. Trong tất cả các bản tuồng lưu truyền trên đảo Phú Quý, thì vở tuồng Đinh Lưu Tú là được nhân dân “sùng bái” nhất, bởi nó mang trong mình những bí ẩn văn hóa, mà người đời chưa giải thích được. Nếu như Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được hậu thế khắp nơi xưng tụng, ngợi ca: “Đời sống Truyện Kiều là một hiện tượng lạ ít có trong lịch sử văn hóa tinh thần của nhân loại…Truyện Kiều đã tạo ra một đời sống văn hóa gắn liền với không gian văn hóa của người Việt – không gian sinh hoạt cộng đồng, từng gia đình, từng giai đoạn, từng biến cố lịch sử của dân tộc”. Và Truyện Kiều còn được tiếp nhận qua hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian có tính tâm linh, được dùng để coi Bói. Thì vở Đinh Lưu Tú cũng được dùng để bói.
Trước hết, chúng ta thử tìm hiểu về nội dung vở tuồng này: Đinh Lưu Tú đã có hôn ước với Tiết Ngọc Xuân, con gái Hoàn Công. Ngọc Xuân bị thái sư Hồ Ngạn sai quân đuổi bắt, nhưng được Hắc Lân cứu thoát. Hồ Ngạn cướp ngôi vua Tống, sai bắt Hoàn Công. Đinh Lưu Tú cứu Hoàn Công, đồng thời cứu được cả bà Thứ phi đang có mang hoàng tử. Trải qua bao gian nan vất vả, nhờ tình bạn của Tô Hắc Lân, tình yêu chung thủy của nàng Ngọc Xuân, Đinh Lưu Tú đã hoàn thành sứ mạng, một lòng phò vua giúp nước, giết giặc trừ gian. Đây là kiểu đề tài khá quen thuộc trong các tác phẩm sân khấu dân gian, đề cao những con người trung nghĩa.
Khi có những tâm tư khúc mắc muốn làm sáng tỏ, người dân đảo thường có niềm tin (phần nào mang tính mê tín dị đoan), tức là tìm đến nhà ông bầu gánh hát để xin xem bói. Nghi thức bói tiến hành như sau: ông bầu chuẩn bị nhang đèn, hai ly rượu trắng, tiền và bản tuồng cổ đặt lên bàn thờ, đọc tên tuổi thân chủ rồi khấn xin “Đại đế thập nhị tổ sư” hiển linh mách bảo thiên cơ. Thân chủ sẽ lật bất kỳ một trang trong bản tuồng, ông bầu sẽ lấy 4 đồng tiền xu có lỗ để ở 4 góc của 2 trang bản tuồng. Sau đó đọc lời trong hai trang ấy mà đoán điều lành dữ.
Người Nam Bộ có câu ca dao rằng:
“Trồng trầu thả lộn với tiêu
Con theo hát bội, mẹ liều con hư”.
Như vậy, Hát bội không chỉ là loại hình sân khấu dân gian phổ biến ở các tỉnh miền Trung, mà còn được yêu thích tại miền Nam. Hát bộ có một vị trí hết sức đặc biệt của trong đời sống văn hóa tinh thần, trong xu hướng thẩm mỹ nghệ thuật của số đông nhân dân lao động. Với chức năng giải trí, góp vui cho những dịp lễ hội, hát bộ cùng với các hình thức diễn xướng dân gian khác, đã tạo nên một sức hút mãnh liệt lôi kéo, mời gọi, giữ chân người đi xem hội vì thế mà hội thêm đông thêm vui, làm gia tăng tính cố kết trong cộng đồng. Hát bộ và đặc biệt là hình thức bói tuồng đã phản ánh rõ nét tín ngưỡng lâu đời của ngư dân miền hải đảo. Qua đó, cho thấy đời sống tinh thần phong phú của những con người thênh thang biển cả, gió với trăng là bạn, nước với trời mênh mông.
Những năm gần đây, nhân dân đã tự tổ chức thành những gánh hát không chuyên tập hợp các “nghệ sĩ” là những trai tráng làng theo lối tự biên, tự diễn. Hằng năm, vào các dịp cúng tế Xuân – Thu nhị kỳ hoặc ngày giỗ các bậc tiền hiền sáng lập đảo, nhân dân trên đảo tổ chức hát bội, sinh hoạt, vui chơi, giải trí.
Hiện nay, do nhiều nguyên nhân tác động nên ngày nay loại hình diễn xướng dân gian hát bội không còn phát triển như trước nữa và dần mai một. Ở đảo còn một đoàn hát bội là đoàn Đồng Tâm thành lập đến nay đã được 108 năm. Những năm gần đây, ngư dân cũng thường mời những gánh hát bội từ Nha Trang, Quy Nhơn ra biểu diễn.
TUỒNG HÁT BỘI SẦM BÀNH
HỒI I
Long ứng điềm càn ngũ; Phượng hiến thụy ly tam
Già ham cơm vỗ bụng trời Nam; Trẻ vén áo khoe lưng sàn Bắc.
(Như tôi) sanh gặp đời Hán thất, tôi Mã Võ tánh danh.
Soi niềm ngay thu nguyệt trăng thanh;… thẳng xuân thiên gió mát.
(Thời) thương bấy lê dân xao xác, bởi vì thằng Vương Mãn nó hung hăng.
Tán viết:
Từ Vương Mãn tiếm xưng đế vị, sát Bình Đế, sát Nhu Tử Anh.
Có phải nó làm cho đến nỗi, muôn dân xao xuyến lòng vàng.
Xuôi cho thấu trăm họ, chúng ruột rời dạ thảm.
Từ ngày nó Trường An xông lượng; Nãi tôi thời chiêu tu mã binh.
(Phen này) phục càn khôn Lưu Võ nguyệt gắng như đinh; Giềng xã tắc Mãn, Mã phá tan tợ gió.
(Vậy thời) lòng miên áy náy, dạ mỗ bàng hoàng.
Lên ngựa ký vội vàng, trải quan san điền lạp.
Vãn viết:
Điền Lạp dầu ta ngoạn cảnh, chốn tâm lòng cho biết cơ quan.
Trải qua mấy dặm vân sơn,
Cỏ cây thơ thớ khắp ngàn rừng xanh.
Tán viết:
Quan tường sơn thủy hân hoan ý; Cảnh vật hữu tình lộng lạc tai.
Hòa nhã thanh sơn hòa nhã xứ; Xuân thời thảo mộc xuân thời khai.
Vãn viết:
Thời khai hữu lai sơn thủy, ngưỡng khan tường hùng trĩ vu phi
Vu phi mộc tồn chí diệu, hữu lý trường huỳnh điểu vu lai (vào)
(Mựa hầu)
LƯU DIỄN viết:
Cành vàng soi Hán thất; Lá ngọc rõ Lưu gia.
Vâng bá hoàng kiểm điểm binh xa, quyền nhất điện tánh danh Lưu Diễn.
Cảm Tiên đế lòng dường xao xuyến; Hận vương gia dạ tợ quặn xao.
(Như thằng Vương Mãn này là) khiến muôn dân lê thứ tiêu hao
Xui bá tánh chư nhơn ta thán.
Rày mừng đặng chúng sinh lai giáng; Giúp ngã triều bồi đắp phong cương.
Nay ta dầu thu đặng Táo (?) Dương, Thời bây ắt khôn toàn thân thể.
Truyền chư quân điều tể; Rao chúng tướng nghiêm trang.
Đinh Lý nọ kíp sang; Táo Dương thành vội trải
(Vào) (Mựa hầu)
LÝ SĨ ra viết:
Giúp Lưu Hoàng bồi đắp; Phó Hán thất phong cương.
Vây Bá Hoàng bạc phạt Táo Dương; Quyền Phó tướng tánh danh Lưu Sĩ
Gan trải đất lâm phò Hán thất; mật làm thành chống đỡ Lưu gia.
Hận Sầm Bành nhũng nhiễu vạc ba; Oán Vương Mãn bạo tàn trùng chín.
Miễn ta luyện bền lòng câu trung tín, để mặc ai dồi chữ gian tà.
(Tao nói thiệt phen này) tay nỗ động mâu ma, ắt đầu bây ra ngạ quỷ.
BÁO viết:
(Lưu Diễn tới) Có nhất điện người sang, tôi phải vào thưa lại.
LÝ SĨ viết:
Bội mừng nhất điện, thỉnh nhập hoa đường.
(Bớ quân tử diên đây) thúc binh cơ ty tướng thơ tường.
Táo Dương địa Sầm Bành dũng dược.
Trước dùng kế dường bền cán đẩu; Sau toan mưu bẻ rút ngọn ngành.
(Thưa thượng quan chặng hay thượng quan) phải dùng kế công thành, hay dùng mưu chế tướng.
LƯU DIỄN viết:
(Bớ Phó tướng, ta có nghe rằng) Dã Táo Dương bạo chướng, thêm hổ cứ Sầm Bành.
(Nay mà) ta muốn cho thu đặng Táo Dương, phải liệu kế dụ chưng hiền tướng.
Ấy mà mưu chi thượng quan, ấy là kế chi cường.
(Bớ hộ thần, tương bút chỉ để tạ từ) Tả phiến từ sứ mạng vâng truyền; Tương ngọc bút trình quan Thái thú.
SỨ THẦN viết:
Dạ ! Trên quan đà nãi phó; Dưới tôi phải khâm tuân
(Hai quan nhập)
SỨ THẦN viết:
Phụng mạng trước hiên quân, Kíp trông chừng Dương địa
Vãn viết:
Dương địa (xxxx); Đứng làm người trung tín đừng quên.
Phăng phăng giục ngựa đường tên; Kia là Dương địa nọ miền Sầm gia.
(Vào) Mựa hầu
SẦM BÀNH xuất viết:
Trải mật đắp triều ca; Phơi gan bốn đế nghiệp.
(Thời) dộc đoạt Lê triều ngọc diệp; Lâm thân Hớn thất gian san.
Quyền Thái thú Táo Dương, ngã Sầm Bành tánh tự.
(Thời) đánh Bắc tâm kinh xa lánh; Dẹp Nam hơi sói vắng tanh.
Sửa giềng vương chữ can thành, Nâng triều Mãn bền câu thạch trụ.
BÁO viết:
Dạ dạ ! Hữu vương sứ đáo vu thành ngoại, thần hoang mang phi báo trướng tiền.
SẦM BÀNH viết:
Hứa nhập
SỨ THẦN viết:
Rày Lưu gia la võng anh hào, phái văn biểu trình qua Thái thú.
SẦM BÀNH lấy thư đọc viết:
Lưu Diễn ký từ dữ Thái thú chiết khán. Văn Diễn thiên sanh đại thánh, địa sản ư minh quân. Kim ngô chúa thường khuất ưu sơn giang, trữ tinh dưỡng nhuệ, thử nhật oai minh cảnh ngoại, diệt dũng thanh tòa túc hạ, quyết hiến hàng bất thất công danh chi vọng, nhược hữu chấp từ, tất tao cầm lục.
Hựu viết:
Thủy thận dầu sôi sục sục; (mà) Hỏa tâm lửa cháy phừng phừng. Quái sát tha tiểu khấu yêu nhơn; Tài bao lăm chống đỡ công Tần. Thống hận dã cuồng nhi, sức mấy chút lẫy long phạt Mãn.
(Gia tướng) hạ lệnh gia tướng, tương sứ sức gia hình.
(Bớ sứ thần) phen này mà dạ mỗ chẳng dung, kể tội vua ngươi khôn thứ.
(Bớ sứ thần nghe tao dặn về nói lại cùng chúa mi cho rõ).
Loạn viết:
Quái nhữ chúa yêu nhơn tiểu khấu, cảm lê dân địch tánh xưng Lưu.
(Bớ sứ thần, tao nói thiệt, chúa mi dầu phụ thể đế vương, lương gia hậu duệ, sẵn cho dù đế vương đi nữa, cũng mặc chúa mi).
Ngô thực lộc trung quân bất nhị; Nguyện điển trừ Lưu thị giang sơn.
SỨ THẦN loạn viết:
(Trăm lạy thượng quan, ngàn lạy thượng quan)
Phục vọng… nguyên dung tiểu tốt; Nhứt phen quá thất.
(Trăm lạy thượng quan, ngàn lạy thượng quan, xin nghĩ đi nghĩ lại cho kẻ hạ thần nhờ).
Đạo vi thần tử khả lại hà.
SẦM BÀNH loạn viết:
(Bớ quân, tương sứ gia hình), quái nhữ cháu tham tâm bất yểm, cạm dụ ngôn hào kiệt vô vong.
SỨ THẦN loạn viết:
(Dạ dạ tôi xin ông ôi) !
Bồ bặc tướng trung (ức lắm thượng quan) !
Ức thậm ức vọng kỳ xá úc (oan lắm thượng quan)
Oan hà oan nghiệm xứ vô tru.
SẦM BÌNH viết:
(Bớ quân, tương sứ gia hình, tao nói thiệt)
Thiên dù nhị nhật, ngô nguyện diệc xạ chi (còn) quốc hữu song vương, ngã tất tru dã.
Loạn viết:
(Tao nói thiệt) Bất thứ yêu nhơn, khả hóa hầu can dũng dước.
(Tao cho chúa bây dầu) tự xưng chân mạng thị vô dung.
SẦM MẪU viết:
Y mần sao quở phạt rõ ràng, lại có tuyên hoa đường hạ (mần rứa vậy con).
Thời trước mặt mẹ thấy phạt ai, tạ (xx) nhìn tướng, ngờ tướng là tài.
(Bớ mẹ con hỏi) Người là người ở đâu, tội ấy tội hci (mà) con chẳng để chư tướng đàm kỳ tội nhi công chi.
Con vả chăng là quyền Thái thú Táo Dương thành (mà) con lại chấp liêm chấp sỉ.
Chẳng là nhẹ ông Thái thú (đi con).
SẦM BÀNH viết:
(Dám thưa mẹ, số là) nay có yêu nhơn Lưu Tú, nó tiếm xưng rằng phụ thể đế vương.
(Bởi vậy cho nên) Táo Dương thành con hỡi quân trường; Nó khiến sứ người tương thơi lai dụ.
SẦM MẪU viết:
(Nay con phân rằng Lưu Tú tiếm xứng phụ thể đế vương. Bởi vậy chon nên) đem binh khôi phục Hớn triều, thủ Táo Dương thành, nên người mới khiến sứ nhơn đem phiến từ dụ con đầu Hớn phản Vương Mãn (đó chi). Người làm vậy đã phải ý làm sao mà con đánh sứ người (rứa con).
SẦM BÀNH viết:
(Dám thưa mẹ, con đánh người chẳng qua là) cho rõ biết Bành không về Tú.
(Dám thưa mẹ phen này) con trao quân Bành lãnh bắt Lưu (cho mẹ coi).
SẦM MẪU viết:
(Ơ ! Người sứ kia, ta người sứ đi về tâu lại cùng Lưu Tú cho rõ, con mụ nó nóng nó đánh oan lắm).
SỨ viết:
(Lạy bà tôi về)
SẦM MẪU viết:
Nghe rằng quá ngán, thấy nó nực cười, co sao chẳng biết người Lưu triều hậu duệ.
Từ Vương Mãn tiếm xưng đế vị, sát Lưu gia nhị bá dư dân.
Người là vua con chẳng biết nguồn cơn.
Kẻ là giặc con vun trồng cội rễ, là con vun trồng cho ai?
(Trong thế mẹ biết nay con thấy Lưu Tú khôi phục đơn cô thế quả cho nên con gọi người tiểu. Khấu yêu nhơn đó chi).
Sức Sở giang sơn ai kể (có phải) yếu là Lưu giúp nghiệp sử cờ.
Con phò Mãn mà chi, kíp đầu Lưu mới phải.
SẦM BÀNH viết:
(Dám thưa mẹ) Áo cơm này dầu cải quyền lộc đó đâu ưng
(Dạ) Vả mẫu từ yên tại liên quân.
(Gia tướng) truyền gia tướng nhật dung thành ngoại.
SẦM MẪU viết:
Khoan khoan đình bộ, bớt bớt chớ qua.
Con chẳng lo tôn tổ giống nhà mà chẳng đoái miếu đường việc nước.
(Bớ con thời con nghĩ đó con coi) có phải ông cha từ thuở trước, chịu quyền lộc nhà vua (có phải là Lưu không) con cháu lại ngày sau, nỡ lòng nào phản Hớn.
SẦM BÀNH viết:
(Dạ thưa mẹ) Ăn lộc Mãn lòng còn gắng sức; Chịu quyền vua dạ trẻ âu lo.
Mẹ dầu dạ nọ chẳng cho, (con nói thiệt) trẻ nguyện ăn gan Lưu Tú.
(Bớ quân, truyền đại tiểu tam quân, ấy nhật dung thành ngoại).
(Vào)
SẦM MẪU viết:
(Này ớ ông con) ông con (xx) mụ mẹ khó can.
Thôi, hổ cùng nước non, thẹn với thần với quỷ.
Con đà không chung thủy, mẹ phải giữ bổn căn.
Chống gậy hoa quày quả lui chân, nương đường hạnh vội vàng theo chốn (?) khiếp nhược !
Vãn viết:
Theo chốn (?) con tàu khoái ? nước, đứng làm người nợi trước nghĩa sau.
Gập ghềnh xuống thấp lên cao, ba sinh chẳng vẹn năm sao phải thờ.
(Vào) Mựa hầu
SỨ ra viết:
Từ phụng lãnh mật từ, đã trình qua Thái thú.
Người đã xé thơ đánh sứ, lại thêm nhục mạ nhà vương.
Binh người đã xuất Táo Dương; Thần hạ hoang mang hồi báo.
LƯU DIỄN viết:
Giận bấy Sầm gia mư tháo, chẳng kiêng Lưu thị kế minh.
Xui cho lê thứ làm thinh, lại khiến nhân dân tan tác.
Anh hùng dầu sợ thác, sợ thác chẳng anh hùng.
Cuốn cơ tham diễn nguyện tung hoành, di cán đẩu Sầm không phấn túng.
Phú Phó tướng tiên phuông dinh chúng.
Điều binh hậu tập mặt ta, nhứt lệnh phấn mâu ma, tam dương quân kiếm kích.
(Vào) (Ban ngựa nhị lão)
BAN viết:
Giương kiếm hề phấn đao binh, tiền hậu tấn hề cầm mãnh hổ, tả hữu hề đoạn côn kình.
LƯU DIỄN xuất, loạn viết:
Trục mã đề thương, nguyện sát bỉ bất lưu thốn thảo.
Huy qua phấn kích thệ cầm tha niểu thủ nguyện kỳ.
(Vào)
LÝ SĨ xuất, loạn viết:
Đề đao vấn xứ bất dung tru, kiếu nễ Sần Bành khả đình câu.
Sát thấu Mãn gia thu đồ dịch; Quái Thới An Vương thị nguyện cầm chi.
(Vô)
SẦM MẪU xuất viết:
Phăng phăng lần dấu thou; Nhẹ nhẹ tách đường chim.
Miễn là cho chúa với Nghiêu thiên; Sá chi thiếp thân tàn Thuấn nhật.
Vãn viết:
Thuấn nhựt trông chừng đường hạnh, miễn chúa là lánh khỏi tai ba.
Hựu viết:
Ơ nghịch nhi, nghịch nhi ! Tao dầu theo kịp nghịch nhi (thời) thiếp nguyện đánh tan
nghịch tử.
Vãn viết:
Nghịch tử con già khiếp nhước ?, mối giềng trời đã rủi lại may.
Phút bải hoải chân tay, lại hao phiền khí thể.
Chín tháng dư rất tiếc ; Ba năm chẳn không màng.
Con quyết lòng di biến giang san (là) mẹ dốc chí tài bồi xã tắc.
(Thời tôi nghĩ lại thân bất hạnh tôi cũng liều thân tôi cho rồi lắm, nhưng mà) thương bấy
Hán triều ngọc diệp, gượng đem về Táo Dương thành.
Đặng liệu phương kế giấu con lành, ngõ tiện Sở khuôn phò chúa thánh.
Vãn viết:
Chúa thánh khuôn phò cho toại, vững miếu đường tường thoại giềng ba.
Phăng phăng kìa chẳng dinh gia, mau chân bước tới ngõ toan phương lành.
(Vào)
LÝ SĨ cúi chào Sầm Bành, viết:
Trên ngựa vội mừng túc hạ; Dưới cờ yết kiến tôn nhan.
Về cùng ta luận chỉ tam cang; Lại với đó mặc câu lục tặc.
SẦM BÀNH viết:
Bừng bừng thấm mặt, rực rực cháy mày.
Kim tiêu nọ lấp đi, nhất khắc tru nễ mạng.
(Giáp chiến, Lưu Diễn tiếp chiến)
LƯU DIỄN viết:
Túc hạ nay đà tường tận, tôn nhan rày đã mừng lòng.
Nên đầu Lưu kẻo uổng đấng trượng phu; Tòng nẻo thuận mảng kiếm trang tử trúc.
SẦM BÀNH viết:
Tranh quốc vật tranh thiệt; Đấu chiến mạc đấu ngôn.
Tam cổ phấn côn lôn; Nhất khắc tru nhị mạng
(Giáp chiến, nhị lão tẩu)
LÝ SĨ xuất viết, loạn viết:
Đái tích hàm cừu, hàm chừu, Mãn tặc thiên niên bất tuyệt; Lâm thương bất hận, bất hận
Sầm gia vạn tải nan vong.
LƯU DIỄN xuất loạn viết:
Ngưỡng kiếu hòng thiên trợ ngã đẳng quân thần xã tắc; Phủ ta địa hậu hà nhẫm dung
Mãn tặc súc sanh.
(Vào)
SẦM BÀNH xuất, loạn viết:
Hưu tẩu mạc bôn nhữ tắc quân thần quy ngô thủ. Nghi đình tu lập trung lai cản lộ, nễ đầu
gian tức tặc tu chí.
Hựu viết:
Kim tiêu dã ước đà chí tử; Bạch thỉ mao chung thải kinh tâm.
(Bớ quân) hạ lệnh cuốn cờ thâm, hồi đãi lao quân sĩ.
(Vào)
DIỄN, SĨ nhị tướng xuất viết:
Một trận đà hao tướng nữa, giờ lại hao binh. Thống hận nhữ Sầm Bành, đả xã ngô lưỡng mạng.
Biển dầu cạn lòng này đâu cạn, non dầu khuyến dạ mỗ đâu khuyết.
Đấng anh hùng nào nại mất còn, trang hào kiệt dễ tường suy thạnh.
Vãn viết:
Suy thạnh là lẽ thường nào nại, miễn giếng trời như tại trùng quang.
Xông tên đúc pháo chi sờn, trừ loài Vương Mãn, đánh cùng Sầm gia.
(Vào)
KỲ DIÊU xuất viết:
Sớm lân la rừng hạnh; Chiều ngao ngán non tùng.
Quê Bạch Lãnh châu, tôi Kỳ Diêu biểu tự.
Từ mẫu đã xa chơ cõi thọ, khiến cô nhi bồi ngõ dương trần.
Biết no nao gặp hội phong vân, biết bao thuở đền câu dưỡng dục.
(Ngày xưa thân phụ cũng thực kỳ quân lộc, trí chủ tận trung, đến sau cha tôi già trí sĩ quy
điền).
Tán viết:
Ai dè thân phụ tôi bất hạnh, bởi vậy cho nên, tôi một mẹ một con cùng cư nham huyệt phụngdưỡng từ thân.
Khi ấy chúa công tuy hành độc mã đáo cô thôn, tống lễ cầu hiền.
Tôi có thưa cùng chúa công tôi rằng:
Nhất mẫu sanh nhất tử, nhũ bộ vị báo ân, chờ cho mộ ảnh tang du, khi ấy mới xuất thân trí chúa. (Cơn rứa chừ) mẹ tôi thấy tôi nói bấy nhiêu lời, phút liều mình tự vận cho tiện tử trung. Khi ấy tôi một đầu, chúa công tôi một đầu, an táng tại Vân Sơn. Rồi chúa công tôi lại cho tôi hai nén bạc, bảo tôi thôi thời thủ hiếu tam niên dầu mãn, tận trung vạn tuế
đừng quên.
Hựu viết:
(Bởi vậy cho nên tôi) tam niên báo bổ dĩ thành, nhất trí khuôn phò tận đạo (chi nữa) vai
mang cung tạo, lưng dắt tên càn.
Sấp lưng từ giã miếu đường, bắt mặt trông chừng Bạch Thủy.
Vãn viết:
Bắt mặt trông chừng Bạch Thủy, thảo ngay này nào tỷ Tăng Sâm, người xưa còn có từ
tâm, ta nay phải dõi cổ kim vẹn đền.
Hựu viết:
Nay ta xuống Bạch Thủy thôn, tá chúa công khôi phục Hớn triều (đánh cho tàn Mãn tặc)
Dầu cho nó thiên binh thiên tướng đi nữa mà làm chi.
Vãn viết:
Ngàn binh ngàn tướng đâu sờn, éo le bầy kiến đám đương xe thiềm
(Vào)
Diễn, Sĩ nhị lão xuất
LƯU DIỄN viết:
Miễ là cho khôi phục Hớn gia; Sa chi mỗ phi tinh kiến nguyệt.
Vãn viết:
… Phi tinh kiến nguyệt, rước hiền tài xuân cảnh trùng quang, no nao khôi phục giang san, phân thây Mãn tặc (xxxxxxxxxx).
Đồng viết:
Anh em đều trở lại triều thành, tâu đại đức lẽ nào mặc dạy.
Đồng loạn viết:
Huề thủ đồng hành vọng gia gia, bại binh chi tướng tội vưu đa.
Tiền lai tiền tích vô cùng oán, hận niệm xá sanh tợ hãi hà (vào).
VƯƠNG LƯƠNG viết:
Từ hai trẻ xuất binh Táo địa, lẽ thắng bại nhược hà. Nhân sao có biệt vô âm tín.
DIỄN, SĨ đồng viết:
Dạ dạ ! Từ đại nhân hạ lệnh, ngu đẳng lãnh hưng binh, kim thất lợi cơ binh, thằng thân
hồi thọ tội.
VƯƠNG LƯƠNG viết:
Tâm nan hối, nan hối; Sư như hà, như hà.
Hai cháu khá thông tường, ngô khả văn bổn mạt.
DIỄN, SĨ đồng loạn viết:
Phụng mạng hoàng gia xuất hùng binh; Dữ tha Mãn tặc lực thôi chinh.
LƯU LƯƠNG viết:
Nhữ vi tướng bại binh, chúng ưng cai nạn tử.
Loạn viết:
Bại binh chi tướng lưu hình hiến, công pháp vô tư bất vị thân.
DIỄN, SĨ đồng loạn viết:
Vạn vọng hoàng gia khắc thẩm lân, nhiêu dung cai mạng nguyện tướng trần.
Bỉ thử cao tài đa diệu pháp, ngu nan đối thủ khổ giao công.
LƯU LƯƠNG loạn viết:
Tha thị như hà thi diệu kế, đẳng nan địch thủ thoái tinh thần.
DIỄN, SĨ đồng loạn viết:
Mãn tướng nãi Đỗ Nhan chi đồ đệ, hữu diệu tài, cao kế chi kỳ công.
VƯƠNG LƯƠNG viết:
Văn ngôn dĩ biểu cơ quan, tha thị thậm đa diệu kế, lẽ chẳng dung một gã nhưng mà dĩ
đức phóng sanh, đó đã cậy tài cao, đây dễ về nhà gã, đợi cho Lưu Tú phản hồi, khi ấy sẽ
hưng binh Táo địa.
(Bãi triều, vào)
KỲ DIÊU xuất ngộ Lưu Tú:
Khuynh thân đa tạ, yết kiến chúa công.
LƯU TÚ viết:
Mừng tôi chúa phục hồi Hán thất, hận vương tà nghiêng ngửa đồ vương.
Lo chi chẳng bảo hộ phong cương, trở gót kíp phản hồi Hồ địa.
Loạn viết:
Phản mã lâm tuyền tấn Hồ Dương, đồng tâm hiệp (kiệt) lức tá Hớn vương.
Long hổ tường quan xuân cảnh sắc; Vân phong đồng bộ hiến kỳ lương.
(Vào, mựa hầu)
VƯƠNG LƯƠNG viết:
Chói lòng son bồi đắp phong cương; Vắt mây hạc vun trồng thổ vũ.
Nhân bủa ví người xin con đỏ; Đức so bì vỗ kẻ dân đen.
Quyền bá hoàng gia định Hồ Dương; Dựng cờ nghĩa Lưu Lương thị dã.
Từ tôn điệt dưới hiên phụng sắc; Lãnh huỳnh kỳ bạc phạt Táo Dương.
Bị Sầm Bành phấn cử oai cường; Đã Diễn, Sĩ kim tiêu tiễn độc.
Sợ Lưu Tú chưa tường trong đục; Chốn Lãnh Châu sao vắng âm hao.
Đêm thấp thỏm trông sao; Ngày băn khoăn nhớ bóng.
LƯU TÚ viết:
Vọng bá hoàng Minh thánh tăng long, khuynh thân lễ kiến cung trần.
Ngưỡng nguyện bá hoàng thiên tuế, thiên thiên tuế.
VƯƠNG LƯƠNG viết:
Cháu vì nước thương sảnh bổ tế; Bác ngay vu lê thứ thân chiêu.
Rày Lãnh Châu rước đặng họ Diêu; Lo chi chẳng Hớn triều khôi phục.
LƯU TÚ viết:
(Như bá hoàng) chẳng hay anh cháu bình định Táo Dương đắc thất nhược hà.
LƯU LƯƠNG viết:
Từ hai trẻ Táo Dương binh tấn, phút nửa giờ tướng dữ Sầm Bành.
Trăm quân lại xông pha, hai tướng đà phi tích.
LƯU TÚ viết:
Nghe nói lòng dường kim chích, thấy rằng ruột tợ sóng xao.
Như Sầm Bành cử … tài cao, phải chi có Mã Võ bạt sơn sức chống.
DIÊU KỲ viết:
Dạ ! Thần Kỳ Diêu lãnh mạng, lãnh mạng, Táo Dương địa thân chinh, thân chinh.
(Tôi nguyện phen này) bắt Sầm Bành cổ chẵng nhị thanh, trừ Mãn tặc nang trung kiến nhẫn.
LƯU TÚ viết:
(Dạ dám thưa bác) Rày đã sẵn binh Tôn Tẫn; Lo chi trừ tướng Bàng Quyên.
Cúi vâng lệnh dưới hiên; Táo Dương thành tấn phát.
LƯU LƯƠNG viết:
Cháu đã dốc lòng trương kiếm kích; Bác thân mừng dạ nãi bạch mao.
Xe trước đà dịch sử anh hùng; Xe sau phải nghiêm răn đồ trận.
TÚ, KỲ đồng viết:
Dầu chẳng ra oai chấn; Danh sao chói đức càn.
Cúi vâng lệnh dưới màn; Hồi chỉnh tu binh mã.
(Vào, bãi triều)
(Ban ngựa Kỳ Diêu tiên chinh)
BAN viết:
Vạn đội tấn hùng binh, sanh kỳ tuế nhật tinh.
Trảm Sầm Bành cổ chấn, cổ chấn, trừ Mãn quỷ kim thinh, kim thinh.
KỲ DIÊU xuất loạn viết:
Thần oai xuất lực trừ Mãn tặc; Võ dõng bào hao trảm Sầm Bành.
Nguyện thi diệu võ trừ hung bối; Quyết tiễn oai phong đoạn côn kình.
(Vào)
LƯU TÚ xuất loạn viết:
Hoang mang đoạt lộ vọng Dương thành; Sát tha Vương thị đoạt phong cương.
Thế tợ hổ lang bôn sơn thượngp; Oai như phụng võ nhiễu thiên trung.
(Lưu Tú cúi đầu chào Sầm Bành)
LƯU TÚ viết:
Trên ngựa khuynh thân làm lễ tạ; Trong quân buông tiếng kỉnh tôn nhan.
(Thưa túc hạ, chẳng dám nào, túc hạ cũng thường thấy kinh sử lẽ nào túc hạ chẳng biết
làm răn). Thấy bất thê phụng minh rực rỡ, câu tứ mộc hiền sĩ chói lòa (túc hạ quên
chăng).
SẦM BÀNH viết:
Loài yêu nhân quen thói; Đảng cuồng khấu khoái đời.
(Tao hỏi) cõi càn khôn đứng chẳng đổi vời; Gương nhật nguyệt rõ ràng cho biết.
(Giáp chiến, Kỳ Diêu tiếp chiến)
SẦM BÀNH viết:
Gã nào mặt sắt, hắc nhãn trường tu.
Nói tên ngươi cho biết thôn phu, đặng mỗ đánh cho toàn hào kiệt.
KỲ DIÊU viết:
Cuồng nhi coi cho biết, Kỳ Diêu thiệt tên ông.
Tam cổ đoạt côn lôn; Nhứt trận khai xà hổ.
(Giáp chiến, Lưu Tú khán)
SẦM BÀNH viết:
Hảo anh hùng củ củ, chơn dũng dước hoàn hoàn.
Đấu trường thương sức cũng cầm đồng (vậy thời) đua võ nghệ rõ ràng hào kiệt.
LƯU TÚ viết:
(Xưa tôn sư người thường nói rằng) Trong hai mươi tám vì sao, vừng Bắc đầu chúng tinh truyền viễn, vĩ Hỏa hổ Sầm Bành thời đã Tĩnh mộc ngạn, Diêu thị đã tường, lẽ thiên cơ sanh tướng tá Hớn gia, sao Hỏa hổ sanh tâm bồi Mãn tặc.
Hai mươi tám vì sao còn giúp mỗ, huống chi một Sầm Bành lại có trở đương.
(Ấy là tại ngươi) Cung thần tay mỗ kíp trương; Tên ngọc dạ miên ướm thử.
(Sầm Bành thối lui, Kỳ Diêu truy đuổi).
KỲ DIÊU viết:
Nhãn tường điển xế; Mục đổ lôi oanh.
Âu ta kíp buông cương; Truy Sầm Bành thượng lộ.
Loạn viết:
Thần oai sất sá trừ hung bối, nỗ lực bào hao diệt Sầm Bành.
Quái tối nhữ thi phân thắng dã; Nguyện phi hài cốt táng sơn hà.
(Lưu Tú hồi lệnh thu quân)
Hựu viết:
Trong thắng trận sức này nguyện diệt, dưới cờ nghe tiếng minh kim.
Sao Chúa công chẳng thúc lệnh trên, mà lại minh kim thối mã.
LƯU TÚ viết:
Tưởng Sầm Bành một gã, đương hưng hỡi ngàn binh.
Trong trận trung long hổ nan phân.
(Nay ta thối quân, chẳng qua là) vì ngó xạ tướng tinh tả tý
Chữ thiên kim dễ thứ; Câu nhất mộc nan cầu.
(Chúng tướng) truyền chúng tướng cuốn cờ sâm, hồi giải lao quân sĩ.
(Vào)
SẦM BÀNH xuất (có Châu Vân)
Hựu viết:
Nhơn trận mỗ đương quyền thủ, châu thân miên đông thống tả kiên.
Nó thừa thế khinh miên, vậy ta bèn trá bại.
Táo Dương thành trở lại, đặng liệu mưu cao.
Cho biết mặt anh hùng, kẻo khinh miên hào kiệt.
Hựu viết:
(Bớ Châu Vân) Phú Phó tướng Châu Vân, đáo trại tiền mai phục.
Bớ Châu Vân, (kề tai nói nhỏ) việc làm khá tư lương, máy binh tua cẩn thận.
CHÂU VÂN viết:
Hoang mang thừa phụng sắc, lẫm liệt phấn hùng binh.
Hồi tiền dinh kiểm điểm binh nhung; Tựu thử xứ y như thử kế.
(Vào)
(Lưu Tú, Kỳ Diêu xuất)
LƯU TÚ viết:
Mừng đặng dẹp loài giặc dữ, cũng nhờ có sức tôi lành.
Truyền chước tửu cầu hiền, ngõ quân thần hỷ lạc.
ĐỒNG BÀI viết:
Thiếu niên tài kiệt lưỡng sanh hùng; Sanh kỳ muộn động bích sơn cao.
Oai danh sát mạng không hoàng hiện; Chiến cổ thôi tàn lạc bài khai.
Xã tắc vị minh công vị quyết; Hoàng cầm ngọc thố tiển sương mao.
Hựu viết:
Tiệc này mãn tiệc, lòng lại mừng lòng.
Giang tay lại trại trung, đặng nghỉ an quý thể.
(Lưu Tú, Kỳ Diêu nhập)
CHÂU VÂN xuất viết:
Dĩ đột nhập trại trung, truyền tam quân phóng hỏa.
(Lưu Tú, Kỳ Diêu lạc nhau)
LƯU TÚ xuất viết:
Tứ phương hỏa phát, bát hướng quân reo.
Quả dĩ thất cơ quan, Sầm Bành lai đoạt trại.
Quân thần kiệt lực, khai phá trùng vây.
(Vào, Châu Vân ra)
CHÂU VÂN viết:
Chơn trúng kế, trúng kế, quả tặc thần, tặc thần.
Hạ lệnh dữ tam quân, cấp truy tầm Lưu tặc.
Loạn viết:
Thần oai nhất cử chuyển bình sanh, nỗ lực bài khai đoạt lý trình.
Nguyện kỳ nhuệ khí trừ Lưu tặc, quyết triển oai phong diệt Hán Lưu.
(Vào)
LƯU TÚ xuất viết:
Đoái thấy sanh kỳ tệ nhật, trực nhìn kiếm kích ngưng sương (do thất mã).
Húy a, ngựa thương đâu để sẵn bên đường, quỷ thần thiệt vun trồng Hớn thất.
Quân thần đều thất lạc, tôi chúa lại cách phân.
Vái cùng trời xin trợ Hớn gia, nguyện với đất thoát vòng giặc dữ.
Vãn viết:
Giặc dữ dễ nào tên pháo, thoát khỏi vòng ngọn giáo mũi tên.
SẦM BÀNH viết:
Trời cao khó nổi lên, đất thấp khuôn phép xuống.
(Tao nói thiệt) ngôi vua người dù muốn, báu nước mỗ quyết thâu.
Huy thần oai phấn động qua mâu; Giang sơn tận thị quy ngã thủ.
(Giáp chiến, rồng vàng đỡ thương, Lưu Tú sa ngựa)
Đầu Lưu Tú mong treo… huỳnh long đâu bay tới đỡ thương.
(Nếu vậy) quả mình chàng chân mạng đế vương, nay mới có huỳnh long phụ thể.
(Dù có huỳnh long phụ thể cũng mặc chúa mi)
Hạ lệnh dữ quân nhân, kíp truy tầm Lưu Tú.
(Vào)
LƯU TÚ xuất viết:
Những mãn lâm trong bạch nhẫn, nào hay thoát khỏi đao binh.
Vái cùng trời đem lại phong cương, xin cho mỗ thoát lòng quân sói.
Vãn viết:
Cho mỗ thoát vòng quân sói, miệng vái trời xin khỏi loài gian.
No nao đem lại gian san, Hớn triều khôi phục mới an dạ này.
SẦM BÀNH hét viết:
Cá kia không thoát lưới, chim nọ khó sổ lồng.
Quơ kim tiêu phấn động qua mâu; Giương bạch nhận huyền đầu Lưu Tú
(Giáp chiến, Lưu Tú tẩu)
KỲ DIÊU xuất viết:
Những mãn xông vào trận, tám phút đà lạc mất phương hai.
Nếu chúa công lụy chốn sa trường, ắt Diêu thị danh ô trần thế.
(Những mãn xông vào trận, tám phút đà lạc mất phương hai.
Nếu chúa công lụy chốn sa trường, ắt Diêu thị danh ô trần thế.
(Vậy thời) liệu mình này bổ tế, ra sức mỗ truy tầm.
Trở ngựa lại trận trung, đặng truy tầm chúa thánh.
Loạn viết:
Trục mã thối hàng, thiên thủy thạch truy tầm Hớn chúa.
Huy tiên phản bộ, phá hải tâm giải cứu Lưu sanh, tả hữu xung khai tầm bất kiến chúa
công hà tại, đông tây sát phá, ai ta hồ ! Hớn thất giang san.
(Vào)
MÃ VÕ xuất viết:
Cung thần mang cánh, búa nguyệt dắt lưng.
Giục vó lừa tách dặm Vân Sơn, xông đường hạnh lướt miền Bạch Thủy.
Vãn viết:
Bạch Thủy ngõ tầm minh chúa, quyết ra tài diệt Mãn phò Lưu.
Bầy ong thức gẫm trăng thu, xem ? dân là chí khuôn phò ấy gan.
(Vô)
KỲ DIÊU xuất viết:
Đà mỏi sức hỏi han, lại hết phương tìm kiếm (gặp Mã Võ)
Lộ tiền mừng hiền hữu, mã thượng yết hiền huynh.
(Thưa quý huynh có thấy chúa công độc mã điêu trình hay không) ?
MÃ VÕ viết:
(Chớ chúa công đi mô mà độc mã diêu trình) ?
KỲ DIÊU viết:
(Số là) bị Thái thú thất thiêu trại nội.
(Bởi vậy cho nên) tôi thời lạc lối chúa bị băng ngàn.
Máy cơ binh một thuở dầu hư, trang danh tướng muôn năm khó chắc.
MÃ VÕ viết:
Thấy nói tâm trung hỏa phát, nghe rằng thận nội sóng xao.
Táo Dương thành Thái thú gã nào, hỏa công trại chúa công bị kế.
KỲ DIÊU viết:
(Dám thưa anh, quyền võ cử Trạng nguyên Vương Mãn, tên gã là Sầm Bành).
MÃ VÕ viết:
(Sầm Bành nào hay là Sầm Bành ngày trước thi với tôi một trường đó chăng ? Vậy thời
nó có tài với ai chớ tài với tôi ha ! Vây thời)
Hiền hữu thành trung phản mã, đặng thưa cùng Vương bá người tường.
Chốn lộ đồ mặc mỗ đảm đương, tầm chúa thánh sát tha cuồng khấu.
Loạn viết:
Phản mã trận trung tầm Lưu chúa, thí công trục nhật bảo hoàng gia.
Lăng lăng cánh khí lai đàn hạ, tiền công hậu chiến phá cuồng nhi.
(Vào)
LƯU TÚ xuất loạn viết:
Ngưỡng kiếu hoàng thiên, hà nhẫn sử quân thần ly biệt.
Phủ ta địa hậu hà cắt phân Nam bắc sâm thương.
Hựu viết:
Cơn nguy hiểm dễ nài còn mất, miễn Hớn triều bình định phong cương.
Đoái sau lưng kiếm kích ngưng sương, giục tráng mã lành vòng giặc dữ.
Vãn viết:
Tráng mã lánh vòng giặc dữ, cảm tiên hoàng phân dĩ giềng ba.
Mây trôi bọt nước xông pha, đã qua nẻo tắt lại hầu đường quen.
(Vào)
ĐỖ NHAN xuất viết:
Trải mật nghĩa chi chi; Bày lòng nhơn trác trác.
Xưa sức trẻ từng dời chơn vạc; Nay tuổi già dưỡng tánh nhà chim.
Tô Xuyên quận ấy triêm; Đỗ Nhan là tên lão.
(Từ lão trí sĩ quy điền về quê lão, thấy sách có chữ rằng:
Chí yếu mạc như giáo tử, chí lạc mạc như đọc thơ, bởi vậy cho nên) Trải màn Tẫn tập luyện võ quyền; Giăng tướng Dung ôn nhuần kinh sử.
Trước dạy con long thao đồ trận, sau giáo sĩ hổ lược binh thư.
Tán viết:
(Nói cho phải, nội học trò lão, đặng có một trò kên là thằng Sầm Bành, trong nhị truyện ngũ kinh đều chói, còn mười tám phương đồ trận lại thông. Ai dè dưới Vương Mãn lập trường khai khoa thủ sĩ, nó thưa cùng lão cho nó xuống Trường An lập chữ công danh đặng mà khuôn phò đế nghiệp. Nhưng mà lão coi tướng nó: quan kỳ tinh tượng, thằng Sầm Bành là thiên sanh tinh tú, thời mà phò nhà Lưu. Nhưng mà lão chẳng cho nó xuống Trường An, chẳng là thấy Vương Mãn nó bạo tàn Hớn vận. Bởi vậy lão dốc cái lòng để thằng Sầm Bành phò Hớn Lưu gia. Vậy cho nên lão không cho nó đi, ai ngờ nó chẳng nghe lời lão, nó lén đi xuống Trường An nó thi đỗ vỏ cử Trạng nguyên Vương Mãn. Rồi Vương Mãn phong cho nó quan Thái Thú Táo Dương thành, lão tiếc là tiếc, trời sanh tướng để dành là để dành phò Lưu gia mà thôi. Nó lại giúp Vương Mãn mà hung hăng Huỳnh Việt cùng nhà Hớn. Vậy chớ uổng cái công mà lão dạy thằng Sầm Bành, là tôi dạy cho ai.)
LƯU TÚ xuất viết:
Cả kêu ai ở trong nhà mở cửa cho tôi vào.
ĐỖ NHAN viết:
(Bớ Lang, ai kêu mở cửa cho con !) Đoái thấy long đình tương đối, chợt nhìn phụng thể
tường giao.
Chẳng hay người ở phương nao, khá nói cho tường hắc bạch.
LƯU TÚ viết:
Những mãn xông vòng thỉ thạch, vậy nên lạc tới lâm tòng.
Dòng Hớn gia dốc dựng mối giềng, tôi biểu tự tánh danh Lưu Tú.
ĐỖ NHAN viết:
(Như vậy) Lão phu tự hối tự hối, hủ giả thất nghinh thất nghinh.
Mựa trách lão rằng khinh, vốn thiệt già chưa tỏ.
(Con) Nhị Lang con tua kíp cho mau, đặng ra đó tiếp cùng công chủ.
NHỊ LANG viết:
Vâng lời cha ra đuổi con công, tôi thấy nó trên cây tố hộ.
ĐỖ NHAN viết:
Ăn ở thói ra con nít, lung tung chẳng phải thằng khôn.
Kíp trở lại gia trung, ngõ dọn cơm một tiệc.
Hựu viết:
xin chúa vui vầy một tiệc, đặng tôi còn nỗi nguồn cơn.
(Chớ) đi việc chi, cô lực thân đơn, xem dường có tâm kinh tán phách.
LƯU TÚ viết:
Ngàn trùng vừa tách, trăm họ lại thương.
Bị Sầm Bành trấn thủ Táo Dương, chốn trại nội hỏa công mai phục.
ĐỖ NHAN viết:
Sầm Bành nào, hay là Sầm Bành thi đỗ võ cử Trạng nguyên Vương Mãn đó chăng ?
LƯU TÚ viết:
Dám thưa lão trượng, phải đó !
ĐỖ NHAN viết:
Tưởng ai mà rằng, chớ như thằng Sầm Bành đó là học trò lão.
LƯU TÚ viết:
Kinh hải chơn kinh hãi, bàng hoàng thị bàng hoàng.
(Thưa lão trượng cho tôi cáo cùng lão trượng tôi đi).
ĐỖ NHAN viết:
Chúa công nghe lão nói thằng Sầm Bành là học trò lão cho nên chúa công sợ mà cáo đó
chi, nghe mấy lời trong đục, đà biểu đắc có quan.
(Thưa chúa công chẳng can chi, mà chúa công phòng sợ)
Như Sầm Bành dầu gã có lang, thời tôi đã sẵn phương huấn dụ.
(Nhị Lang con tua kíp, cẩn tuyển hậu đường, mời chúa công ra hậu đường mà nghỉ, không sao).
Tiểu tử tua gìn giữ, môn hộ khá cẩn phong.
(Nghe cha dặn, như) Sầm Bành dầu gã có lang, các con khá tiên tri cùng lão.
(Nhị Lang con biểu môn đồ học đi).
SẦM BÀNH xuất viết:
Những mãn xông vào điểu đạo, phút đà lạc tới hiền gia.
(Như tôi chẳng đến đây mà răn, chớ tôi tới đây thì phải vào đây).
Trước là thăm sư phụ, rồi ta kiếm yêu nhân mấy lát.
(Thời) môn hộ tứ phương nghiêm cẩn, chư Nho bát hướng ngâm nga.
Xin mở cửa cho ta, để kêu ai còn đóng.
NHỊ LANG báo viết:
(Thưa cha có Sầm Bành tới cửa).
ĐỖ NHAN viết:
(Ra mở cửa cho nó vào)
SẦM BÀNH viết:
Dạ ! Khuynh thân đa tạ, lễ kính tôn sư.
ĐỖ NHAN viết:
(Chào quan Thái thú, mời ông Thái thú ngồi).
Buông lời hỏi cùng ông Thái thú, tới nhà lão là công sự hay là tư sự.
SẦM BÀNH:
(Dám thưa thầy, số là tôi đi có công cũng có tư) Từ thuở tôi xuống Trường An cho đến nay, tự nhứt nhựt bất kiến như tam thu hề, nên tôi phải vào đây, kẻo tôi nhớ thầy lắm mà.
Hựu viết:
Húy a ! Trước mặt thấy hoa tiên báu vật, sau lưng nhìn mã tích tầm lai.
Hai vật ấy của ai, tấm lòng này quá ngại.
ĐỖ NHAN viết:
(Nay mi hỏi hoa tiên mã tích của ai ! Của thầy chớ của ai).
SẦM BÀNH viết:
(Thưa thầy ngày trước tôi học với thầy, tôi thấy tánh thầy không ưa ngựa. Nay thầy sắm
ngựa mà làm chi) ?
ĐỖ NHAN viết:
(Số là ngựa dưới Trường An, học trò nó đem cho thầy đấy mà).
SẦM BÀNH viết:
Thầy trò dầu nói đôi co, tiểu khấu yêu nhơn không cách.
Ngựa yêu nhơn nó thoát, xem Lưu Tú không sai.
Trách thầy có sao lòng hai, chớ trách tớ rằng không lẻ một.
ĐỖ NHAN viết:
Đồ đệ cạn phân trong đục, tây tân cho biệt giả chơn.
(Như) Lưu Tú chẳng là chơn mạng đế vương (còn) Vương Mãn thiệt loài phản bối.
Đồ đệ đừng quen thói, tây tân chẳng phi tường.
Khá hồi Lưu hương đống đặng dùng, tua bội Mãn lộc quyền khá cải.
ẦM BÀNH viết:
Áo cơm Mãn phò Lưu sao phải, quyền lộc Vương dầu Hớn đâu nên.
(Thưa thầy tôi nó điều này hay e mích lòng thầy chăng ? Tôi) phá
Hớn gia chẳng tợ đường tên, khu Lưu tặc bay qua tợ gió.
(Thưa thầy cho tôi vào hậu đường tôi bắt Lưu Tú cho thầy coi).
ĐỖ NHAN viết:
(Tao không cho mi vào, mi đòi bảo tao mi vào, hèn chi thiên hạ người ta nói nghề võ
đánh trả thầy).
Hỡi bền lòng đó, chi mỏi sức đây.
Triển oai thầy đánh đặng một giây, rồi bắt đó không lâu mấy khắc.
SẦM BÀNH viết:
(Một thầy không cho tôi vào, hai thầy không cho tôi vào, cứ nằng nằng cản tôi hoài, mà
thôi) ấy là, tại thầy gay trước, đừng trách tớ rằng sau.
(Vậy thời, tôi cam thất lễ cùng thánh hiền) yểm kim tiêu đệ tử tương giao, chấn huỳnh
việt hổ long cộng đấu.
NHỊ LANG viết:
Vội mừng em bậu, lên với anh qua.
Sao mi có vô nhà, chẳng sợ ông giữ cửa
(Tao không cho mi vào hậu đường)
(Giáp chiến)
Hựu viết:
Thằng Bành niên hung ác, chớ trách mỗ bạo tàn.
Nó đánh dọc đánh ngang, chẳng kể đầu kể cổ.
Quyết phen này thẳng tới sơn lâm, đặng mé anh Hai đặng rõ.
Vãn viết:
Đặng mét anh Hai đặng rõ, đấng làm người thời có thảo ngay.
Giận thằng Bành bẻ nát chân tay, anh Hai tao mét, chết ngay thằng Bành.
(Vào)
ĐỖ MẠO bạch viết:
Hổ lược long thao ngã luyện thành; Xà đồ mã trận hiển kỳ danh.
Đãi vận long khai ngư dước; Vị thời hội ngộ hữu tân canh.
Hựu viết:
Ngã Đỗ Mạo tánh danh, Tô Châu là sở tại.
Thời huyên tám sớm đà chơi cõi thọ; Thung ba còn phụng dưỡng dương trần.
Lòng miên lâm cánh bác giang san, Dạ mỗ dốc đỡ nâng Hớn thất.
Ngộ kỳ quân như hạn gặp mưa (số là) vị phùng chúa như bạng trùng tồn ngọc.
(Như vậy) minh tinh đà lố mọc, thương thằng lại trường sinh.
Dao vọng khứ thanh thanh, lâm tòng sơn dã thú. A !
Loạn viết:
Dao vọng lâm tòng cử bộ khinh, trừng chiêm bạch lãnh thú cầm thinh.
Thủy tú thanh thanh cầm ngâm vịnh; Sơn cao mạc mạc điểu trường minh.
Hựu viết:
Phong động diệp hòa thanh, thủy trường lưu triều nhiễu.
Vãn viết:
Triều nhiễu dầu ta thong thả, sát thú cầm phụng dưỡng kỳ thân.
Bên rừng thú chạy lăng xăng, chim kêu dắn dỏi thúc lòng (xx).
NHỊ LANG xuất báo:
Cấp sự, cấp sự, bớ anh Hai, cấp sự.
ĐỖ MẠO viết:
(Do hà mà cấp sự) ?
NHỊ LANG loạn viết:
Thưa anh, kim nhật ông công tới nhà ta, xưng vi Lưu Tú nói cùng cha.
ĐỖ MẠO viết:
(Em nói rằng có ông công tới nhà ta xưng rằng Lưu Tú, vậy mà làm sao em gọi rằng cấp
sự).
NHỊ LANG viết:
(Anh không biết tôi nói cho mà nghe. Cấp sự là làm vầy) Lại có thằng Bành lai sở hại, đả
xu thân phụ có đả tôi.
ĐỖ MẠO viết:
Quái sát tha tiểu khấu Táo Dương, thống hận nễ minh ngoan lãnh bửu.
(Nay mà thằng Sầm Bành đánh với cha tôi). Trước đã chẳng tưởng niềm sư đệ; Sau lại
không kiêng nghĩa quân vương.
Triển thần oai bồi đắp giang sơn; Dương nỗ lực khu tàng Mãn tặc.
NHỊ LANG viết:
Anh Hai đà có giáo, tôi lại có roi.
Đánh cho đặng thằng Sầm Bành; Cứu cho toàn công chủ.
ĐỖ MẠO viết:
Huynh đệ đồng cử bộ, tua trở lại gia đường.
Trước là cứu Lưu hoàng, sau nữa là cùng hiệp lực.
NHỊ NHÂN đồng loạn viết:
Biệt liễu sơn lâm phản cựu gia, đồng tâm hiệp lực diệt Vương tà.
Anh hùng tự hữu lăng vân chí, Nguyện triển thần oai trảm Sầm Bành.
(Vào)
(Đỗ Nhan, Sầm Bành xuất, đấu tranh)
SẦM BÀNH loạn viết:
Tây Tân dầu phò Hán, tiểu tử nguyện diệt Lưu.
(Dám thưa thầy, phù vi binh giả, chẳng là hung khí giả.
Còn đấu chiến giả, chẳng là nguy chiến giả
Tôi e lụy dữ mình thầy, nửa lại cưu mang rằng tớ).
ĐỖ NHAN viết:
Mi đã dốc dạ nâng triều Mãn; Tao cũng nguyền tàn diệt Vương cơ.
Trò đánh thầy dưới thế không hai; Tôi phản chúa trên đời có một.
Hai tội ấy mi đà khống cứ; Ba giềng kia sao gọi rằng ngay.
Nguyện có đó có đây; Chớ trách ai còn ai mất.
SẦM BÀNH viết:
Thầy đã dốc lòng bồi xã tắc; Tớ lâm dựng nghiệp nhà Vương.
Quyết một trận phấn mâu, mà thiên niên tồn khí.
(Giáp chiến)
Đỗ Mạo, Nhị Lang tiếp chiến)
ĐỖ MẠO viết:
Mặt nhìn tường tận, kia chẳng Sầm huynh.
Trong ba giềng sao cứ chẳng minh; Chữ nhu nhứt ý sao không rõ.
Tôi thờ chúa trên đời thời có; Trò đánh thầy dưới thế vốn không.
Quả thiệt đảng vô tông; Phô những loài bất dụng.
SẦM BÀNH viết:
Phừng phừng thắm mặt, rực rực cháy mày.
Giúp yêu nhơn đã chắc lòng thầy; Trợ tiểu khấu lại bền chí bạn.
(Như tôi) Ăn lộc Mãn vun trồng cội Mãn; Ở đất Vương bồi đắp nền Vương.
(Như tôi) Trò đánh thầy (chẳng qua là) vì cành bát phong cương, bạn đua bạn dốc đền xã
tắc.
(Giáp chiến, Đỗ Nhan can, Sầm Bành tẩu)
ĐỖ MẠO viết:
Đánh một cái nó đà chí tử, sao phụ thân lại có đỡ tay.
Đường bội sư di xú thiên niên; Loài phản tặc sĩ tàng vạn cổ.
NHỊ LANG viết:
Đánh một cái nó đà trẹo cổ; Đạp hai lần tôi lại mỏi chân.
Trách cha sao lại có lòng tăng, để chi loài phản bội.
ĐỖ NHAN viết:
Hai con vốn chưa tường sự tích; Một cha già đã liễu bổn căn.
Sau Sầm Bành Hớn thất kỷ cương, vị tinh tú Hán gia bội tải.
Nay nó chưa hối cải, sau chàng cũng hồi tâm.
Một đường trở lại sơn lâm, kẻo nữa chúa công hoài vọng.
(Vào)
HỒN SẦM HƯNG xuất bạch viết:
Lộng lạc càn khôn tắc điểm khai; Ta bà thế giới nguyệt tân lai.
Vân vũ mông mông tinh tú hiện; Sương phong phất phất thảo mộc giai.
Hựu viết:
Quyền thủ hộ thiên đài, ngã Sầm Hưng thị dã.
Vĩ hỏa hổ Sầm Bành một gã, giúp Vương cơ Mãn tặc mấy năm.
Tử vi tinh nhứt vị ứng Lưu gia, nhị thập bát tú tinh phò Hán thất.
Mối giềng vương một tấc kỷ cương, Hớn trăm đường đã đến hồi Mãn tuyệt.
Gian sơn nay gặp vận Lưu hưng.
Tôn miếu thừa thiên phong, biểu giá võ dương trần.
Đáo bán lộ giả phân, giáo ngô nhi quy thuận.
Loạn viết:
Thừa phong thiên biểu vấn long phi; Giá võ dương trần triển vân di.
Giáo tử trung quân quy Hán nghiệp;
Diệt trừ Mãn tặc chấn Lưu gia.
SẦM BÀNH xuất viết:
Thống hận nhữ Lưu gia, thiết xỉ tai sư hữu.
Mình thất thế vì chưng trấn bửu, nó đắc thời cậy có vật linh.
(Bớ quân) hạ lệnh dữ chư quân, tấn binh truy phản tặc.
Hựu viết:
Trước mặt thấy mây bay thơ thớ; Sau lưng nhìn gió thổi hồn hồn (?)
Gẫm ấy rất lạ lùng, đều ở qua ảnh ảo (?)
(Bớ quân, bớ quân, thính lệnh tấn binh mau nào).
HỒN SẦM LÃO viết:
Lệnh truyền dữ thiên binh thiên tướng, khá phủ vây địa võng thiên la.
Khá tróc phược cô gia, buông lời hỏi ấu nhi Mãn tướng.
Nay lê thứ quy Lưu bát hướng, đảng diệm dày tá Mãn nhứt ngung.
Máy thiên cơ chói lọi trung châu, vầng Bắc cực tử vi Hớn vận.
Con trẻ khá nghe lời cha dặn, về cùng Lưu danh tiết chói lòa.
Nghe lời cha con chớ phàn nàn, chữ thác ngộ thánh còn tùng trực.
SẦM BÀNH viết:
Trên thanh không nghe phân tiếng nói, Dưới đất bằng (thời) thấy bóng lao xao.
Thời phải cha, cha ở phương nao; Hay là quỷ, quỷ thêm ước cảm.
(Hèn chi nao thiên hạ nói đà lâm Lưu Tú chẳng là yêu nhơn hoặc giả trường giang phi
hổ.
Hoặc hóa long nhiễu thể thận, mà hóa quỷ binh quỷ tướng
Giả làm cha tôi mà biểu tôi về đầu Lưu đấy chi)
Hựu viết:
Truyền đại tiểu tam quân, phất cờ phan tấn phát.
HỒN SẦM LÃO viết:
Bớ thiên binh thiên tướng, phược ấu nhi lại.
SẦM BÀNH viết:
(Dẫu mà thiệt cha tôi, thời cũng nghĩ lại cho tôi nhờ cùng).
Cơm áo Vương về Hán (x) nỡ lòng nào quyền lộc Mãn sao phải nghĩa.
(Thuở trước cha tôi thác sớm, tôi chưa biết mặt cha tôi.
Nhưng mà tôi quên hỏi mẹ tôi, cha tôi hay chữ hay là dốt.
Vậy có phải cha tôi có biết Điền Hoành là người nào, Cao Tổ là người nào.
Hựu viết:
Dã Điền Hoành nhất cá thụ tử, du bất tham quyền tước nhà Hán thay.
(Nay cha biểu tôi bỏ Mãn (mà) đầu Lưu (là mần răn) tự bật nhị cha đà chưa chết, câu vô
di con nguyện đành lòng.
(Như nếu vậy cũng thiệt cha tôi rồi, cha ôi !) Trăm lạy cha xin rộng lượng bao dung,
ngàn trẻ quyết đầu minh bội ám.
HỒN SẦM LÃO viết:
Trong tinh tú hai mươi có tám, máy thiên cơ con giúp vận nhà Lưu.
Đảng tặc thần Vương Mãn chi cưu; Loài tiếm quốc tô tầm chi nghiệt.
Con tua khá bền lòng trung liệt, đừng đem dạ phản thần.
Chốn dương trần cha hỡi tỏ phân; Cõi thiên trúc thanh không biến hóa.
SẦM BÀNH viết:
Thanh không đa tạ, vạn vọng phụ thân.
Nghe lời cha cải cựu canh tân, chư tướng khá thính tùng ngã lệnh.
(Chư tướng, ai về Vương Mãn thì khá quy kim ngôi thiết giáp về cho Mãn cùng một bức
tâm thơ nói cùng chúa tao chưa rõ, nói rằng) tao đà bội ám đầu minh (còn quân thằng
nào về Lưu thời khá theo tao).
Hựu viết:
Tích niên phạt Hán lao hận hữu (đến ngày nay); Kim nhật hoàn lưu thống tâm bi.
Vãn viết:
Thống tâm bi vận thời phải chịu; Số như vầy liệu đạo trách ai.
Hựu viết:
Đã tiếc mấy vun trồng Vương Mãn; Đến ngày nay bồi đắp nhà Lưu.
Vạn sự tất nhi hưu; Nhất tắc đô khả bái.
Áo Vương Mãn lòng này đã cải; Cơm nhà Lưu dạ nọ âu lo.
Nước non mấy chút có vừa; Nay về Hán càng thêm cho hãn.
Vãn viết:
Về Hán càng thêm cho hãn, lụy mình này hổ thẹn nước non.
Bi hoan ly hiệp sự thường, kính lên nhứt thứ xin trình hồi hai
Hạ màn.