Trên đảo Phú Quý từ trước đến nay, trong số các thiết chế tín ngưỡng dân gian có từ lâu đời thì đền thờ, lăng mộ và truyền thuyết gắn với Thầy Sài Nại đã trở nên hết sức linh hiển và gắn chặt với đời sống tâm linh đối với người dân trên đảo.
Đền thờ và Mộ Thầy Sài Nại chứa đựng các giá trị về lịch sử, văn hóa khá đặc sắc. Những truyền thuyết liên quan đến Thầy được lưu truyền đến tận hôm nay gắn liền với lịch sử khai lập và nguồn gốc dân cư trong buổi đầu đến tiếp quản và xây dựng cuộc sống trên đảo Phú Quý.
Truyền thuyết về Thầy Sài Nại
Truyền thuyết về Thầy Sài Nại được người dân Phú Quý lưu truyền theo 2 nội dung khác nhau sau đây:
Truyền thuyết thứ nhất kể rằng: Thầy Sài Nại là nhà địa lý thiên văn người phương Bắc, Ông thường theo các thuyền buôn vượt đại dương đến nhiều nước để hành nghề. Tình cờ trong một chuyến hành trình, Ông và các thủy thủ ghé vào đảo Phú Quý để nghỉ ngơi và phát hiện đây là vùng địa linh so với các hòn đảo khác mà Ông đã tới. Khi rời đảo, Ông đã thổ lộ ước nguyện của mình với gia đình và các thủy thủ đoàn là sau khi qua đời hãy đưa tro cốt của Ông tới đảo Phú Quý an táng.
Ngày mùng 04 tháng 4 năm Nhâm Thìn Thầy qua đời, tro cốt của Ông được một đoàn thuyền buồm xuất phát từ biển Bắc di lý về phương Nam và đưa lên đảo Phú Quý an táng vào ban đêm, rồi đoàn thuyền rời đảo ngay trong đêm hôm đó mà không ai trên đảo hay biết. Sáng hôm sau người dân rất ngạc nhiên khi thấy có rất nhiều hương đèn, hoa quả, trà rượu, heo gà tại khu vực gành đá ở sát biển (nơi Mộ Thầy hiện nay). Tin đồn lan nhanh khiến người dân tò mò kéo đến xem rất đông và người ta phát hiện có một chiếc khạp sành đựng tro cốt người được chôn tại đây.
Truyền thuyết thứ hai kể rằng: Thầy Sài Nại là thương gia ở phương Bắc vào thế kỷ XVI, Ông thường theo các thương thuyền vượt biển đến nhiều nước để buôn bán. Ngoài nghề buôn bán, Ông còn là thầy thuốc giỏi. Trong một chuyến buôn bán, thuyền của Ông bị bão tố đẩy dạt lên đảo Phú Quý. Trong những ngày trú ẩn trên đảo, Ông đã gặp công chúa Bàn Tranh, hai người kết nghĩa chị em và từ đó Ông ở lại đảo Phú Quý sinh sống, hành nghề bốc thuốc chữa bệnh giúp đỡ dân nghèo. Sau khi qua đời, Thầy được người dân trên đảo an táng tại khu vực gành đá (Doi Thầy).
Người dân ở đảo Phú Quý từ xưa đến nay tin rằng sau khi chết Thầy đã hiển linh như thần, ba tiếng sấm nổ vang sau đó là một ánh hào quang sáng rực là hiện thân của ngài. Từ đó dân đảo luôn tin tưởng vào sự linh ứng của Thầy, nhiều người đã được Thầy cứu giúp để an toàn vượt những chuyến biển gặp bão tố hay trong lúc chiến tranh loạn lạc.
Mộ Thầy Sài Nại
Mộ Thầy Sài Nại nằm trên mỏm đá nhô ra biển có tên gọi là doi Thầy ở phía Đông Bắc đảo Phú Quý thuộc xã Long Hải, được trùng tu gần đây nhất vào năm 2002 kiến trúc chính ở đây gồm mộ và am thờ nhìn về phía Tây, nhà khách và nhà khói.
Kiến trúc Mộ Thầy gồm phần mộ và Am thờ Thầy Sài Nại, bên cạnh đó còn có nhà khách và nhà khói. Hướng chính của Am thờ nhìn về phía Tây. Từ ngoài vào, mộ Thầy được xây bên tả bằng nhiều lớp đá san hô chồng lên nhau tạo dáng hình trụ tròn có đường kính 2,2m x cao 90cm và thành mộ dày 55cm.
Phía sau mộ là Am thờ Thầy có kiến tạo hai nóc trước và sau. Trên đỉnh nóc trang trí phù điêu rồng, cá hóa rồng, rùa, giao long. Kiến trúc lắp ghép theo lối tứ trụ, với bốn cột chính ở trung tâm. Nội thất bố trí ba khám thờ: khám giữa thờ Thầy Sài Nại, lọng khám xung quanh chạm khắc các hình tượng như lưỡng long tranh châu, lân, hoa lá và câu đối. Hai khám hai bên kiến tạo tiết mai, lan, cúc, trúc, hoa lá và dây leo. Phía trước ba khám thờ trang trí 3 bức bao lam gỗ đắp nổi các họa tiết như dơi, chim thú, hoa lá và dây leo. Phía trước đặt ba hương án và bên trên chạm nổi mặt hổ phù, chim phượng và hoa lá.
Hàng năm tại mộ Thầy Sài Nại thực hiện hai kỳ tế lễ chính vào tháng giêng và tháng bảy âm lịch. Các nghi thức tế lễ, lễ vật dâng cúng cũng tương tự như các đền, lăng vạn, đình khác trên đảo. Vào khoảng tháng 12, ngày nào người dân cũng mang đồ lễ vật sang mộ Thầy để cúng, chủ yếu là các ghe thuyền cúng cuối năm để tạ ơn, vì số lượng người đến cúng rất đông nên ai đến cúng phải đăng ký trước với người coi quả (người phụ trách việc cúng kiếng tại mộ thầy) để xếp lịch đến cúng có trật tự an ninh. Những nhà có người chuẩn bị phỏng vấn đi nước ngoài cũng hay ra mộ Thầy để xin, thường ai xin cũng đi được nước ngoài nên sau đó họ cũng mang lễ vật ra cúng tạ ơn.
Đền thờ Thầy Sài Nại
Vì để tiện cho việc thờ cúng, không phải đi xa nên người Việt ở đảo đã xây dựng Đền thờ Thầy Sài Nại vào thế kỷ XVI tại Ngũ Phụng, trên ngọn đồi cao phía Đông Bắc làng An Hòa, xã Ngũ Phụng. Xây dựng cuối thế kỷ XVII, thờ thầy Sài Nại đã hiển linh cứu giúp người dân trên đảo. Nhân dân 9 làng của 3 xã luân phiên lưu giữ sắc phong, cúng tế trong một năm, là một tập tục độc đáo, riêng biệt của Phú Quý.
Quần thể kiến trúc đền thờ Thầy Sài Nại gồm có các hạng mục như: Cổng chính, Cột cờ, Bình phong, Võ ca, Chính điện. Hướng chính của đền nhìn về phía Tây Nam. Cổng chính, Võ ca, Chính điện cơ bản kiến trúc gần giống các đình, vạn như: cổng tam quan, nhà vuông có 4 mái, trên đỉnh nóc trang trí các phù điêu long, phượng, hoa lá…
Nội thất Chính điện bài trí 3 khám thờ: khám giữa thờ Thầy Sài Nại lắp ghép bằng gỗ được sơn thếp rực rỡ, giữa khám đắp chữ “Thần”, khám tả thờ Tiền Hiền và khám hữu thờ Hậu Hiền lắp ghép giống nhau. Lọng khám được chạm khắc các họa tiết lưỡng long tranh châu, chim thú, mai, lan, cúc, trúc, hoa lá dây và các câu đối chữ Hán Nôm.
Các vua triều Nguyễn đã ban 8 sắc phong cho Thầy Sài Nại, được nhân dân 9 làng của 3 xã ở huyện Phú Quý luân phiên nhau gìn giữ. Hằng năm, đến ngày vía Thầy Sài Nại vào mùng 4 tháng 4 âm lịch, người dân khắp các làng tại đảo tổ chức đoàn lễ thỉnh rước sắc Thầy Sài Nại từ nơi giữ sắc đến đền thờ để cúng tế. Lễ hội được thực hiện với nhiều nghi thức long trọng nối tiếp nhau theo tập tục lâu đời của người dân ở đảo.
Lễ hội đền thờ Thầy Sài Nại diễn ra vào ngày mùng 4 tháng tư âm lịch. Sau khi kết thúc lễ giao phiên Kỵ Thầy tại đền thờ Thầy Sài Nại, làng hết phiên trách sẽ chuyển giao sắc phong và việc thờ phụng, cúng tế Bàn Tranh công chúa và Thầy Sài Nại cho làng đến phiên trách tiếp theo trước sự chứng kiến của ban lâm tế, các bô lão, đại diện bổn điền của các làng. Đây là nghi thức thỉnh rước sắc thần công chúa Bàn Tranh cùng Thầy Sài Nại từ ngôi đình (đền hoặc lăng vạn) của làng mình đến đền thờ Thầy Sài Nại để cúng tế.
Lễ vật dâng tế lên Thầy Sài Nại tại đền thờ gồm: Bò, heo, gà, hương đèn, trà rượu, hoa quả, việc tế lễ diễn ra theo nghi thức xưa hết sức long trọng. Kết thúc lễ hội, làng đến phiên trách thờ phụng, cúng tế công chúa Bàn Tranh và Thầy Sài Nại sẽ nhận sắc phong và tổ chức đoàn lễ trân trọng nghinh rước sắc phong về làng mình thờ phụng trong niềm hân hoan, vui mừng và vinh dự của người dân trong làng.